Xây dựng mới nhà cao tầng ngày nay chỉ tập
 trung chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát triển ở châu Á, 
châu Phi. Trong khoảng hai năm gần đây, loại hình nhà cao tầng được xây 
dựng nhiều ở Việt Nam, bên cạnh những ưu điểm vượt trội của nó thì những
 công trình nhà cao tầng
   
         
   
    
Phát triển chung cư cao tầng từ lâu đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và ở Việt Nam không là ngoại lệ.
Trên thế giới, nhà cao tầng, siêu cao tầng và nhà chọc trời đã được 
đón nhận từ lâu và được xây dựng rất nhiều trong đô thị các nước đã và 
đang phát triển. Thậm chí, tại nhiều thành phố, nhất là các thành phố có
 lịch sử phát triển nhà cao tầng lâu đời như Chicago, New York… tốc độ 
phát triển nhà cao tầng chậm hẳn lại, ít có xây mới mà chủ yếu là cải 
tạo để hoàn thiện hơn vì đã có quá nhiều.
Xây dựng mới nhà cao tầng ngày nay chỉ tập trung chủ yếu ở các nước 
đang phát triển và chậm phát triển ở châu Á, châu Phi. Trong khoảng hai 
năm gần đây, loại hình nhà cao tầng được xây dựng nhiều ở Việt Nam, bên 
cạnh những ưu điểm vượt trội của nó thì những công trình nhà cao tầng 
đang gây ra những ảnh hưởng và biến đổi bất lợi về môi trường, phá vỡ sự
 cân bằng sinh thái.
(xem thêm dịch vụ 
thí nghiệm nén tĩnh cọc tại VIETBUILD)
Một số vấn đề tồn tại trong quy hoạch kiến trúc, xây dựng và môi trường trong nhà cao tầng ở Việt Nam
Quy hoạch nhà cao tầng: Hiện nay Nhà nước vẫn chưa có những chính 
sách phù hợp cho vấn đề quản lý xây dựng nhà cao tầng. Mặc dù, vẫn có 
một số quy định, hướng dẫn của Bộ Xây dựng về chỉ tiêu số tầng cao và 
mật độ xây dựng cho các công trình cho từng khu vực, từng khu phố, nhưng
 thực tế vấn đề quản lý xây dựng các nhà cao tầng không phải lúc nào 
cũng đúng với quy định.
Hiện nay có rất nhiều cao ốc do tư nhân bỏ tiền ra đầu tư với quy mô 
nhỏ nhằm làm văn phòng hoặc cho các công ty thuê, diện tích đất xây dựng
 chỉ khoảng 100-200m2 với số tầng cao phổ biến từ 9-15 tầng. Đây là một 
loại hình đầu tư xây dựng khá phổ biến hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng
 bắt gặp trên nhiều khu phố, thậm chí ngay cả trong những khu phố được 
quy định xây không quá 4 tầng.
Đặc điểm của các cao ốc dạng này là hầu hết đều được xen cấy vào các 
dãy phố mặt tiền, với mật độ xây dựng 100%. Xung quanh không có khoảng 
trống dành cho cây xanh, mặt nước, vỉa hè không đủ rộng, không có khoảng
 lùi theo tiêu chuẩn, phần lớn đều không có tầng hầm để xe, hoặc có thì 
nhỏ không đáp ứng đủ diện tích cho người sử dụng công trình… Các nhược 
điểm trên trước mắt làm xấu đi bộ mặt cảnh quan chung của các khu phố và
 nguy hại hơn về lâu dài sẽ làm ảnh hưởng đến các vấn đề sinh khí hậu, 
môi trường xung quanh.
Các công trình cao tầng có quy mô lớn, do Nhà nước hoặc các công ty 
lớn đầu tư xây dựng được quan tâm hơn trong vấn đề quản lý quy hoạch, 
khoảng lùi, dân số, diện tích xây dựng, tổng diện tích sàn xây dựng, cây
 xanh, giao thông… đảm bảo tuân thủ theo Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, 
Tiêu chuẩn thiết kế chuyên ngành… Nhưng cũng mới chỉ giải quyết chủ yếu 
cơ bản từng công trình riêng lẻ, chưa thể kiểm soát tốt nhất đến quy 
hoạch nhà cao tầng cho cả một khu đô thị, nhất là các thành phố đã có 
một quá trình phát triển nhà cao tầng như Hà Nội, TP HCM…. Các quy hoạch
 chi tiết đã được các cấp thẩm quyền phê duyệt, tuy nhiên vì nhiều lí do
 và những quy định nên chủ đầu tư đã triển khai một số dự án không đúng 
như quy hoạch được duyệt, dẫn đến tình trạng phải điều chỉnh quy hoạch, 
ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư và tiến độ hình thành dự án cũng như tiến 
độ vào ở của người dân nếu như có nhu cầu mua chung cư.
Hình thức kết cấu và vật liệu xây dựng nhà cao tầng: Có thể nói các 
công trình cao tầng ở Việt Nam phát triển chậm hơn các nước khác trên 
thế giới hàng chục năm trong hình thức kết cấu chịu lực và vật liệu xây 
dựng. Cho đến hiện nay hình thức chịu lực chính của các nhà cao tầng từ 
Bắc đến Nam chủ yếu vẫn là kết cấu khung bê tông chịu lực. Vấn đề không 
phải là chúng ta không có điều kiện học hỏi, áp dụng công nghệ mới hay 
sử dụng vật liệu ưu việt hơn trong xây dựng nhà cao tầng, mà là chúng ta
 chưa có khả năng tự sản xuất các vật liệu đạt tiêu chuẩn hoặc tự thi 
công theo phương pháp mới. Nếu cứ nhập từ nước ngoài vào thì chi phí xây
 dựng bị đẩy lên cao, nhà đầu tư không thể đáp ứng. Chính vì vậy kết cấu
 khung bê tông cốt thép luôn là lựa chọn số một.
Môi trường sinh khí hậu: Hầu hết các nhà cao tầng xây dựng ở Việt Nam
 đều không được chú trọng đến vấn đề tạo môi trường sinh khí hậu. Một 
trào lưu khá phổ biến trên thế giới, và cũng đang tồn tại ở Việt Nam, là
 đặt quá cao mục tiêu kinh tế trong thiết kế và kinh doanh nhà cao tầng.
 Để đạt mục tiêu đó, bằng các giải pháp kiến trúc như giảm mọi diện tích
 lưu thông, giao tiếp, hành lang, cây xanh, giếng trời, sân trong, cả 
kết cấu che nắng, và các giải pháp kỹ thuật xây dựng như giảm chiều dày 
tường bao ngoài, giảm kích thước các cấu trúc thành phần theo chiều 
đứng, giảm chiều cao sàn đến sàn, tăng số tầng nhà…, người ta có thể đạt
 được tối đa diện tích sử dụng bên trong trên mỗi tầng sàn và diện tích 
tối đa của công trình đối với vị trí đất xây dựng.
Số tầng càng cao khả năng thu hồi vốn càng lớn, chủ đầu tư vì lợi ích
 này cũng đã xem nhẹ, không chú ý nhiều đến vấn đề tiết kiệm năng lượng 
và thân thiện đối với các nhà ở cao tầng, khó có thể đạt được gọi là nhà
 cao tầng sinh thái.
Người thiết kế khi đó có thể lạc quan do tạo được chi phí xây dựng 
nhà cao tầng thấp nhất, nhưng như cảnh báo của KTS Ken Yeang, “thì hậu 
quả kiến trúc sẽ trở nên đơn điệu như những chiếc boong-ke”.
Một số nhà cao tầng khi được đầu tư xây dựng không những không hài 
hoà với xung quanh mà còn phá vỡ cảnh quan đẹp. Một số khác quá chú 
trọng về hình thức kiến trúc hoặc áp dụng nguyên dạng cao ốc nước ngoài,
 quá nhiều kính, không được thiết kế thông gió, che nắng… không phù hợp 
với điều kiện khí hậu vùng nhiệt đới của Việt Nam. Điều này rất ảnh 
hưởng đến vấn đề môi trường sinh khí hậu, ảnh hưởng đến khả năng hoạt 
động, sinh hoạt, tâm sinh lý của con người.
Thẩm mỹ nhà cao tầng: Kiến trúc nhà cao tầng ở Việt Nam khá đa dạng 
về thẩm mỹ. Về mặt hình khối có 3 dạng chủ yếu: Dạng tháp, dạng tấm, kết
 hợp tấm và tháp. Về mặt xu hướng kiến trúc, các cao ốc tập trung vào 
các kiểu sau: Nhắc lại kiến trúc cổ châu Âu, kiến trúc hiện đại, kiến 
trúc hậu hiện đại, loại trào lưu kiến trúc triết trung.
Có những công trình thành công, tạo thẩm mỹ tốt góp phần làm đẹp bộ 
mặt của đường phố trong đô thị, cảnh quan tốt, phù hợp với xung quanh 
như khách sạn Hilton (Hà Nội), cụm kiến trúc cao tầng trên quảng trường 
Công xã Paris, Quảng trường Mê Linh, Quảng trường Lam Sơn để xử lý kiến 
trúc theo trục Công viên 23-9, trục Nguyễn Huệ - Hàm Nghi, trục Tôn Đức 
Thắng (TP HCM)… Nhưng cũng tồn tại khá lớn các nhà cao tầng có hình thức
 xấu, xử lý hình khối, mặt đứng không tinh tế, trở thành những cục bê 
tông thô kệch hoặc theo hình thức kiến trúc chắp vá, vay mượn, không 
theo kiểu kiến trúc nào.
Một số giải pháp giúp định hình hướng đi cho kiến trúc nhà cao tầng ở Việt Nam
Về mặt quy hoạch: Chiều cao nhà cao tầng phụ thuộc rất nhiều vào sự 
phát triển của hệ thống giao thông theo chiều đứng. Một trong các vấn đề
 gặp phải trong nhà siêu cao tầng là sự liên hệ giao thông giữa các phần
 của các nhà siêu cao tầng khác nhau là rất khó khăn. Di chuyển theo 
chiều đứng chủ yếu phụ thuộc vào thang máy.
Để đảm bảo cho sự thích nghi của con người, tốc độ thang máy chỉ có 
giới hạn nhất định. Chính vì vậy sẽ rất mất nhiều thời gian để di chuyển
 theo chiều đứng trong các nhà siêu cao tầng. Tuy nhiên với trình độ 
khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay, vấn đề này hoàn toàn có thể 
khắc phục, với sự thông dụng của hệ thống cáp treo, của đường sắt trên 
không, và có thể tưởng tượng xa hơn đến sự phát triển các hệ thống giao 
thông tối tân khác. Khi đó mối liên hệ ngang giữa các phần của các nhà 
siêu cao tầng sẽ trở nên mật thiết, dễ dàng, mô hình phát triển đô thị 
theo chiều đứng mới thật sự hoàn thiện và đúng với ý nghĩa của nó.
Trong mỗi đô thị tuỳ theo quy mô to nhỏ khác nhau, cần hướng quy 
hoạch vị trí các nhà cao tầng tập trung theo từng cụm. Trong mỗi cụm quy
 hoạch theo hệ thống mạng lưới ô vuông có môđun. Điều này sẽ tạo cơ sở 
thuận lợi cho việc lắp đặt thêm các hệ thống giao thông trên cao lúc cần
 thiết trong tương lai.
Về vấn đề lựa chọn hình thức kết cấu và thi công: Hình thức kết cấu 
chủ yếu của nhà cao tầng ở Việt Nam hiện nay là khung bê tông cốt thép. 
Bê tông có ưu điểm chịu lực tốt, bền và là dạng vật liệu thông dụng, giá
 thành rẻ nhưng không thể tái sử dụng và nặng nề. Có thể hình thức này 
sẽ giúp nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí xây dựng trước mắt, nhưng về 
lâu dài sẽ khó khăn và tốn kém hơn nhiều lần trong chi phí cải tạo hay 
phá bỏ khi công trình quá hạn sử dụng.
Vì vậy, chúng ta không nên quá nóng vội, lấy số lượng nhà cao tầng 
được xây làm thước đo cho tốc độ đô thị hoá, hiện đại hoá mà lấy chất 
lượng và khả năng thích ứng trong tương lai làm tiêu chuẩn. Nhất là các 
công trình nhà siêu cao tầng sau này. Để đạt được điều đó, cần chú trọng
 nghiên cứu, học hỏi, nhập khẩu các công nghệ hiện đại, sử dụng các vật 
liệu xây dựng thân thiện với môi trường, đảm bảo các yếu tố tiện nghi, 
kỹ thuật, dễ dàng tháo lắp và tái sử dụng sau này, giúp hạn chế tối đa 
lượng rác thải xây dựng không thể tái sử dụng.
Về phát triển nhà cao tầng theo xu hướng nhà bền vững: Đó là hướng 
thiết kế nhà ở bảo đảm được sự phát triển bền vững và đa dạng sinh học 
của các đô thị, đem lại một môi trường trong sạch, vệ sinh, trong đó con
 người và mọi dạng sinh học được phát triển cân đối, hài hoà, tốt đẹp, 
không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai.
Thiết kế nhà ở cao tầng bền vững, trước hết là thiết kế thích ứng với
 khí hậu, tạo lập được một môi trường sống vệ sinh, tiện nghi. Cụ thể là
 thiết kế tận dụng tối đa năng lượng mặt trời, ánh sáng tự nhiên, gió, 
sử dụng cây xanh, mặt nước, sử dụng lại nước sinh hoạt, tiết kiệm năng 
lượng nhân tạo và tài nguyên thiên nhiên, sử dụng năng lượng tái tạo, 
giảm các chất ô nhiễm thải vào môi trường, từ lúc công trình xây dựng, 
trong suốt quá trình vận hành cho đến khi phá dỡ.
Thiết kế nhà ở bền vững còn quan tâm đến mọi hoạt động của con người,
 từ công việc, học tập, đến sinh hoạt văn hoá, chính trị, xã hội và mọi 
nhu cầu dịch vụ phục vụ con người như giao thông, giải trí, giao tiếp…
Nhà cao tầng theo xu hướng nhà ở bền vững áp dụng cho điều kiện ở 
Việt Nam cần đáp ứng được các yêu cầu sau: Thích ứng với khí hậu vùng 
nhiệt đới của địa phương; Tiếp cận khí hậu sinh học (sinh khí hậu) trong
 việc thiết kế các công trình nhà cao tầng; Mức độ tiện nghi và không 
gian sinh hoạt, làm việc phù hợp với người Việt Nam; Giảm thiểu tối đa 
tiêu thụ năng lượng, tận dụng năng lượng tự nhiên; Đạt được giá trị thẩm
 mỹ tốt, lâu dài, phù hợp với cảnh quan và môi trường.
Xây dựng nhà cao tầng và đặc biệt là nhà siêu cao tầng là tất yếu vì 
những ưu điểm của loại hình nhà này, và do sự thúc đẩy của nhiều yếu tố 
kinh tế xã hội khác. Nhưng do đặc điểm kỹ thuật xây dựng và tổ chức cuộc
 sống khác với nhà thấp tầng, nên cũng nảy sinh nhiều vấn đề có liên 
quan đến năng lượng và môi trường sinh thái. Đó chính là lý do của sự 
hình thành và phát triển kiến trúc nhà cao tầng sinh thái, bởi vì chính 
loại hình kiến trúc này sẽ giải quyết hài hoà mâu thuẫn giữa quá trình 
đô thị hoá tất yếu và sự phát triển bền vững của các đô thị. Nhà cao 
tầng sinh thái là tất yếu để phát triển nhà cao tầng theo xu hướng nhà ở
 bền vững tại Việt Nam và cũng là xu hướng chung ở các đô thị trên toàn 
thế giới.
Qua đây có thể đánh giá sơ qua về tình hình phát triển kiến trúc nhà 
cao tầng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay và những đề xuất các giải pháp 
hướng đi cho nhà cao tầng ở Việt Nam tương lai. Những vấn đề đã nêu 
trong nội dung chỉ là một phần nhỏ trong hàng loạt vấn đề trong thiết 
kế, xây dựng nhà cao tầng hiện nay.
Qua đây có thể giúp các kiến trúc sư trẻ và những người quan tâm thấy
 được tính cấp thiết của việc quản lý, thẩm định, phê duyệt, đánh giá 
một cách nghiêm túc về ảnh hưởng của nhà cao tầng tới môi trường sinh 
thái và một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội. Từ đó chỉ ra sự cần thiết 
nghiên cứu, phát triển loại hình kiến trúc nhà cao tầng sinh thái, một 
hướng đi đúng, nhằm phục vụ quá trình đô thị hoá ở Việt Nam theo hướng 
đi tích cực, bền vững cho tương lai.
Ths. KTS Trần Trung Hiếu/TCKTVN